Showing posts with label mất niềm tin. Show all posts
Showing posts with label mất niềm tin. Show all posts

Sunday, January 5, 2014

Bút Lông đã hỏi Diễn đàn Nhà báo trẻ một câu hỏi

>> Tàu hỏa VN trăm năm vẫn thế?
>> Làm sao nói cải tổ mà không dám hi sinh?
>> Không thể nói thật vì dối trá là bản chất
>> Đừng để người dân nghĩ chính trị phần lớn là dối trá!
>> SMI: cô ruột của nhà lãnh đạo CHDCND Triều Tiên, có thể, đã tự sát



Kết quả này không phải do cơ quan chức năng đặt hàng, song dù ít, dù nhiều cũng phản ánh thái độ nhiều mem đang công tác trong lĩnh vực báo chí ở các vị trí quản lý báo chí, nghiên cứu báo chí, phóng viên, biên tập viên... về hoạt động của một cơ quan báo chí cụ thể. Dù cơ quan này hay những người theo dõi diễn đàn có tiếp nhận kết quả đó hay không thì con số này vẫn là một thực tế cần suy nghĩ.

Nguồn: FB Bút Lông


Xem thêm:
- Đừng lôi tổ quốc gói gọn trong một cái giường
- Đừng lấy cái xấu để mong đè bẹp cái xấu hơn
- Truy tìm kẻ giấu mặt đã mật báo cho Dương Chí Dũng bỏ trốn

Tuesday, November 19, 2013

Con Thuyền Ma

>> Xứ sở vọng phu...
>> Nguyễn Thiện Nhân- Thất bại toàn tập
>> Khi thầy Nguyễn Thiện Nhân lặng người xấu hổ


Truyện ngắn của Doãn-Quốc-Sỹ

Xưa có một đoàn người hẹn cùng gặp nhau ở miền biên giới nọ. Họ gồm chừng ba mươi tráng sĩ, thân nhau như anh em, đều là những tay phiêu lưu cự phách; chuyến này họ trù tính đi lâu để thăm nhiều miền xa lạ.

Sau mấy tháng vượt đèo cao, rừng rậm, đoàn tráng sĩ tới một miền duyên hải vô cùng hoang vắng, dân cư không thấy bóng một ai, mặc dầu hai bên đường có vô số nhà cửa bỏ không.

Ở đây vừa có bệnh dịch tàn sát dân vùng chăng? Những người sống sót phải tản cư đi các miền xa lánh nạn chăng?

Thật ra thì dân chúng tản đi vì vì cho rằng trời đã bỏ quên không nhìn nhận miền này, để mặc cho yêu khí xuất hiện. Yêu khí xuất hiện thành một hòn đảo, đứng trên bãi cát thì nhìn thấy rõ, nhưng hễ bước xuống thuyền định chèo tới đảo thì lại không thấy gì cả.

Khi đó các tráng sĩ cho ngựa leo lên một khoảng cao rộng để phóng tầm mắt nhìn ra xa. Lúc đó mặt trời vừa lặn.

Hoàng hôn.

Trong ánh vàng bâng khuâng của buổi chiều tà, đoàn người phiêu lưu bỗng cảm thấy một niềm hoang loạn nung chảy trong không khí. Cả vũ trụ cơ hồ sắp vĩnh viễn tàn theo buổi chiều. Có điều phải công nhận, ánh hoàng hôn hôm đó tuyệt đẹp. Rừng, núi, biển như cao rộng thêm. Cả đoàn tráng sĩ có cảm tưởng kỳ dị như đương cưỡi ngựa đi giữa thinh không.

Gió ngoài khơi thổi táp vào núi, không ra nhẹ, không ra mạnh.

Thăm thẳm dưới chân họ là một vùng biển bao la.

Mặc dầu họ là những tay phiêu lưu kỳ cựu, mặc dầu họ đã làm quen với biết bao gian nguy mà sao họ đều thấy rờn rợn, và làn gió như thổi vào hồn họ những xao xuyến, những kinh hoàng. Họ đắm đuối nhìn cả miền duyên hải với núi non lởm chởm, với những thành đá cao vòi vọi dựng đứng thành một bức tường vô tận chạy thẳng tắp tới chân trời. Tiếng song rầm rộ xô vào chân núi và tiếng một loài chim lạ vang lên rõ rệt. Không khí đượm vẻ ma quái hoang vu. Ánh hoàng hôn trước khi tắt chợt bùng lên muôn phần huy hoàng. Đoàn người cùng reo vui, vì họ vừa chợt nhận thấy môt hòn đảo xuất hiện nơi xa.

Hòn đảo xuất hiện với một khoảng lớn màu vàng đậm. Chính giữa có một vệt sáng lấp lánh.Xung quanh vệt sáng là đường viền xanh thẫm với những điểm trắng nhỏ lay động luôn luôn.

Một tráng sĩ, có biệt tài nhìn xa, bèn dung nhãn lực để quan sát. Lát sau tráng sĩ đó nói:

-Màu vàng trên đảo là màu lúa chín. Điểm sáng lấp lánh là hồ nước ngọt, xung quanh là cây xanh. Bên bờ hồ có một bầy tiên nữ đang nhẩy múa. Những điểm trắng lay động lúc tung lên cao làm vòm cây xanh lốm đốm trắng, lúc lả tả rụng xuống như hoa mai gặp gió, đó là những con hạc cứ mỗi điệp khúc lại sà xuống múa cùng bầy tiên nữ.

Ánh hoàng hôn vừa tắt, đảo xa mờ đi như một ảo ảnh sau làn khói lam dâng lên từ mặt biển.

Trời tối hẳn, phía trước có ánh sáng. Ánh sáng reo vui. Ánh sáng chào đón.

Đoàn tráng sĩ cho rằng nơi đó có người ở, bèn lần theo con đường dốc thoai thoải, xuống bờ biển, tiến lại gần. Thì ra đấy là một chiếc thuyền khá lớn, đủ chứa cả bọn. Thấy trên thuyền thấp thoáng có bóng người, họ bèn leo lên. Đó là viên thuyền trưởng, dáng người vạm vỡ, vẻ mặt lầm lì, rõ ra là một đại du khách đã dạn dày với sương gió.

Viên thuyền trưởng nói có thể chở mọi người đi xem đảo Cực Lạc gần đó.

Cả bọn hỏi: Đảo Cực Lạc như thế nào?

Viên thuyền trưởng đáp: Đảo này bốn mùa hoa cỏ tốt tươi, cây cối sầm uất, có đủ các thứ lúa đã chín vàng, gặt đi rồi tự nó lại mọc.

Ai nấy vui vẻ buộc ngựa lại trên bờ, bên một hốc núi, rồi lên thuyền.

Họ định đến thăm đảo rồi sẽ quay về xứ sở đón những người thân cùng đến hưởng hoa thơm quả lạ và gặt lúa vàng ở đấy.

Viên thuyền trưởng tức khắc đẩy thuyền ra khỏi bờ. Vì trên thuyền không có thủy thủ, nên viên thuyền trưởng nhờ mọi người cùng chèo giúp. Ai nấy vui vẻ vào việc mà không biết đã lên nhầm một con thuyền ma.

Rồi với vùng ánh sang do chính con thuyền tỏa ra, viên thuyền trưởng nói là sẽ đưa mọi người đến đảo Cực Lạc.

Trời không một vì sao. Biển mênh mông, ánh nước đen ngòm. Con thuyền di chuyển đều do sức chèo của đoàn người ưa phiêu lưu.

Cứ như thế lâu lắm.

Chợt môt người trong bọn hỏi viên thuyền trưởng: Tại sao trên trời không có lấy môt vì sao?

Viên thuyền trưởng đáp: Đường đi tới đảo Cực Lạc không có sao.

Sự thực đêm hôm đó sao đẹp lắm. Giải Ngân Hà vắt ngang trời rộng và hiền như tình mẹ. Muôn vàn vì sao nhỏ như những mảnh lân tinh vụn chìm dưới đáy hồ trong vắt. Đây đó một vài ngôi cực sáng như quy tụ cả niềm hoan lạc của khoảng trời. Phương tây, ngôi sao hôm lấp lánh một niềm tin bất diệt. Phương bắc chuôi sao Tinh Đẩu hướng chếch lên như chiếc xe chở các thiên thần đương lên một cái dốc thoai thoải.

Tiếc thay đoàn người phiêu lưu ngồi trên con thuyền ma, bị yêu khí che lấp, nên không ai nhìn thấy gì.

Mọi người lặng lẽ chèo…

Tiếng chèo khua nước vang ra một khoảng rộng trên mặt biển.

Cứ như vậy khá lâu.

Một lúc sau, chợt trong bọn lại có người khác lên tiếng hỏi: Trên trời không có sao thì làm thế nào nhận được phương hướng?

Viên Thuyền Trưởng đáp: Chính hắn là phương hướng rồi, đừng ai nghi ngại gì cả.

Mọi người lại lặng lẽ chèo…

Những đợt sóng liên tiếp từ xa ùa tới vỗ vào mạn thuyền như muốn gửi lên khoang thuyền một phần bí mật rộng lớn của biển cả.

Chợt một người khác nữa trong bọn hỏi? Trời không có trăng sao soi sáng thuyền đâm vào núi đá thì sao?

Viên Thuyền Trưởng đáp: Với vùng ánh sáng do chính thuyền tỏa ra đủ để soi sáng cho thuyền khỏi đâm vào núi đá.

Sự thực khi đó trăng hạ tuần lên cao đã từ lâu. Ánh sáng hiền dịu tỏa nhớ nhung, thơ mộng lên khắp mặt biển mênh mông. Trăng nước u hoài như dìu nhau đi vào vô tận.

Tiếc thay đoàn người phiêu lưu ngồi tr6n con thuyền ma, bị yêu khí che lấp, nên chẳng ai nhìn thấy gì.

Mọi người lặng lẽ chèo…

Tiếng mái chèo khua song nghe sao hoang mang. Đôi khi như nghẹn ngào. Đôi khi như thổn thức.

Cứ như vậy lâu lắm…lâu lắm…

Chợt một người khách hỏi: Quái, đáng lẽ phải qua đêm rồi mới phải, sao trời vẫn tối mò thế này?

Viên Thuyền Trưởng đáp: Trước khi tới đảo Cực Lạc không ai thấy mặt trời. Đường đi như vậy.

Sự thực lúc ấy mặt trời đã ló ở dẫy núi xa xa, mặt biển mênh mông phản chiếu màu hồng rực. Chỉ một loáng sau, mặt trời lên cao, vũ trụ chan hòa nắng vàng, song nước chuyển từ màu xanh thẫm sang màu cẩm thạch tuyệt đẹp.

Tiếc thay đoàn người phiêu lưu ngồi trên con thuyền ma, bị yêu khí che lấp, nên không ai nhìn thấy gì.

Mọi người lặng lẽ chèo. Họ là những người ưa phiêu lưu. Kiên nhẫn là đức tính cố hữu của họ. Bóng đêm mênh mông chụp lấy họ càng như khuyến khích thái độ lặng lẽ và chí kiên nhẫn đó. Có lẽ họ đã chèo như vậy trong nhiều ngày qua rồi. Đôi khi cũng có người cất tiếng hỏi xem đã sắp tới đảo Cực Lạc chưa, thì viên Thuyền Trưởng thường vì mải lái thuyền mà không đáp. Thành thử câu hỏi đó vang lên như một câu tự hỏi trong đáy linh hồn từng người một. Về sau họ đều ngầm cảm thấy rằng thái độ đó khôn ngoan hơn cả để bảo tồn sinh mạng là không nên hỏi gì nữa. Viên Thuyền Trưởng càng trở nên lầm lì, như đương dùng hết sức mạnh, sức mạnh của suy tưởng để sai khiến đoàn người suy tưởng theo một hướng mà hắn quyết định.

Chợt thuyền tròng trành.

Cả khối đen xung quanh chuyển động dữ dội.

Bão biển!

Thuyền xô lên cao, nhào xuống thấp, ngả nghiêng kinh hồn. Rồi biển sủi lên sung sục như một lớp dầu sôi. Tiếng gầm thét trở nên dữ dội như muốn xé màng tai. Mọi người mở to mắt khủng khiếp.

Thuyền nhào lộn giữa cơn thịnh nộ của biển cả, vấp phải những tảng đá ngầm; nhiều chỗ dập nát. Trong khi chống đỡ với cuồng phong đã có mấy người tử nạn. Viên Thuyền Trưởng bảo mọi người khiêng những xác đó đặt vào những chỗ thủng. Hắn niệm chú. Tự nhiên xác chết rữa ra thành một thứ keo dính vào thuyền và lấp kín những chỗ hư đó.

Phong ba dịu dần rồi hết.

Dưới vùng ánh sang do chính con thuyền tỏa ra, viên Thuyền Trưởng nói: “Nhất định thuyền sẽ tới đảo Cực Lạc!”

Mọi người lặng lẽ chèo…

Trời không một vì sao. Biển mênh mông, ánh nước đen ngòm. Con thuyền vẫn di chuyển đều do sức chèo của đoàn người ưa phiêu lưu khi đó đã vắng mất vài bóng người. Họ vừa chèo vừa đưa mắt nhìn về phía thuyền hư, nơi có xác bạn họ rữa ra để hàn thuyền.

Chợt sóng gió lại nổi. Mặt biển như phân chia ra thành muôn ngàn luồng nước mãnh liệt, đổ dồn về phía thuyền, biến chỗ đó thành vực thẳm hợp với vòm trời thành một khối tròn rùng rợn.

Tiếng biển réo lên như muôn vàn thác đổ. Sóng biển cồn lên. Lắm khi thuyền như nhào lộn giữa một hầm dài bằng sóng. Lắm khi thuyền vút nhô lên chênh vênh trên đỉnh một ngọn sóng. Lúc đó mọi người cùng thấy biển ngầu bọt. Màu bọt thấp thoáng trắng giữa những khoảng đen lớn bong loáng như bôi mỡ. Có lúc biển dựng đứng trên đầu như một bức thành vạn cổ.

Sự quái đản cùng cực đó đã khiến đoàn người cùng trở thành vô cùng bình tĩnh.

Thuyền tránh sao khỏi đá ngầm. Thêm mấy người tử nạn.

Xác nạn nhân lại được khiêng đắp vào chỗ thủng mới để viên Thuyền Trưởng niệm chú cho tan rữa ra và gắn vào thuyền.

Sóng gió ngớt dần…

Dưới vùng ánh sang do chính con thuyền tỏa ra, viên Thuyền Trưởng nói mấy lời khích lệ: thuyền nhất định sẽ đến đảo Cực Lạc.

Trời không một vì sao. Biển mênh mông, ánh nước đen ngòm. Con thuyền vẫn di chuyển đều do sức chèo của đoàn người phiêu lưu còn lại.

Chợt khối đen mênh mông lại chuyển động. Trời ơi, họ không ngờ cuộc phiêu lưu này gặp nhiều gian lao đến thế. Cả đoàn người hãi hung. Trong bong tối mênh mông, đại dương như biến thành con quái vật có đời sống thực sự. Và là một con quái vật luôn luôn giận dữ!

Trong khi chống giữ với trận cuồng phong mới, đoàn người phiêu lưu có nghĩ đến những con ngựa mà toàn thể bọn họ buộc trên bờ, bên dốc núi. Có lẽ những con ngựa đó đã dứt được dây cương mà quen trở về quê hương rồi chăng? Họ mong như thế lắm, họ mong cho đoàn người với linh tính phú bẩm sẽ tìm được lối về quê cũ.

Trước đây họ nghĩ có thể đến đến đảo Cực Lạc ngay để rồi còn quay trở về đón những người thân đến sau. Giờ đây họ chỉ dám mong chính ho thoát mọi hiểm nghèo mà tới được đảo.

Thuyền tung lên…Rồi nhào xuống…Rồi những lỗ thủng…Rồi những người tử nạn…Rồi viên Thuyền Trưởng niệm chú…Cơn bão biển này vừa qua, cơn bão khác vội tới. Chính lúc bão ngớt lại là lúc họ có thì giờ để ôn hết mọi hãi hùng. Nghe lớp song mơn trớn mạn thuyền họ cảm như đấy là sự tuần hoàn, sự hô hấp của con quái vật. Sau mỗi cơn điên con quái vật lại nằm thở lấy sức để sửa soạn một cơn khác kinh hoàng hơn.

Mà quả vậy, càng những cơn phong ba về sau sóng gió càng dữ dội. Có lần ngọn gió cuồng loạn như muốn thổi tung mọi người lên cao. Nhưng, con thuyền như có một sức hút kỳ dị, mọi người chỉ bám vào mạn thuyền mà không ai bị hắt ra ngoài bao giờ. Ngay cả những kẻ vừa tử nạn, chân tay buông rời khỏi mọi bấu víu mà cũng vẫn còn lại trong thuyền để dùng vào việc gắn những chỗ dập nát sau này.

Thuyền đã thủng khắp nơi và có nghĩa là khắp nơi đều có gắn xác người.

Tuy phải luôn luôn chống lại với phong ba, trí nhớ đoàn người phiêu lưu vẫn rất sang suốt. Họ nhớ chỗ nào đã gắn xác bạn nào. Có thể nói con thuyền giờ đây họ chèo là con thuyền làm bằng những xác bạn đồng hành xấu số của họ. Đã có người trong bọn họ tự đặt thầm một nghi vấn: Hay chính con thuyền đó đã làm bằng xác biết bao nhiêu người xấu số trước họ?

Điều đó càng khiến họ cảm thấy một mối tình xót xa đối với chính con thuyền đã đưa họ vào bước phiêu lưu gian khổ này.

Họ không còn mong chóng tới đảo Cực Lạc nữa. Họ chỉ mong con thuyền đi ngang qua bất cứ hòn đảo nào. Khi đó chắc chắn họ sẽ trút cả nỗi căm hờn câm lặng bấy lâu xuống hai bàn tay sắt rồi xông lại bóp nghẹt cổ tên Thuyền Trưởng, xé xác nó thành từng mảnh, trước khi cùng nhảy xuống biển bơi vào.

Ngày đó có tới chăng?

Họ tin rằng sẽ có!

Họ muốn rằng phải có!

Nhưng trong khi chờ đợi, song gió hầu như trở thành liên miên. Thuyền vẫn va vào đá ngầm mà không đắm, bởi mỗi khi thuyền dập nát, trên thuyền đã có người tử nạn để vá vào chỗ thủng đó.

Tiếng gió gầm như u uất. Khí âm, khí dương cách biệt nghẹn ngào. Trong không trung, quỷ thần như căm hờn oán trách. Trời biển ngạt đẫm hơi độc.

Tới một ngày kia, trên thuyền chỉ còn lại mấy người sống sót.

Số người càng ít, mối hận thù càng lớn càng nặng. Họ mệt mỏi lắm rồi. Họ muốn quẳng mái chèo, xông tới quyết sống mái với tên Thuyền Trưởng rồi có bỏ xác lại cũng cam. Nhưng chính những người ưa phiêu lưu đó lại sợ xác mình phiêu lưu trên biển. Bởi vậy họ bảo nhau cố chèo riết. Họ bảo nhau trìu mến lấy con thuyền, phương tiện độc nhất có thể đưa họ ngang qua bất cứ hòn đảo nào. Họ chỉ từng chỗ thuyền thủng và nhắc rành rọt từng tên người bạn xấu số. Nhắc như vậy họ thấy lòng nhẹ nhõm, bởi mỗi người trong họ đều nghĩ:

“Mai đây không may đến lượt ta , chắc các bè bạn còn lại cũng sẽ nhắc luôn đến ta”

Họ đưa mắt nhìn ra bốn phía, soi mói tìm, hy vọng họa thấy một hình nổi mờ nhạt trong khoảng mênh mông, báo hiệu sự hiện hữu của hòn đảo ngang qua. Rồi họ đưa mắt nhìn nhau để thầm trao ý nghĩ: phút hạnh ngộ đó mà tới thì dù trên thuyền chỉ còn một người-một người mang nặng oan cừu cho cả đoàn người-người đó hãy trút cả khối nặng oan cừu xuống đôi bắp tay thép mà vung đôi mái chèo lên phang nát mặt hình hài tên Thuyền Trưởng điêu ngoa trước khi nhảy xuống biển bơi vào hòn đảo cứu tinh. Còn linh hồn nó, trốn thoát sao khỏi oan hồn bao người tử nạn! Oan cừu phải gặp oan cừu mà tiêu tan để giải tỏa cho đại dương được nhìn thấy vòm trời.

Nhưng…

Trong khi chờ đợi, trời vẫn không một vì sao. Biển càng mênh mông, ánh nước càng đen ngòm sau mỗi cơn bão. Con thuyền vẫn di chuyển đều do sức chèo của một số nhỏ những người ưa phiêu lưu còn sống sót.

Doãn-Quốc-Sỹ


Xem thêm:
- Tầng 80
- Nhóc có khi tròn khi méo
- Tôi tiến lên CNXH từ lúc mới đẻ


Friday, October 25, 2013

Phải tin vào Chi Pu

>> Nhà Ngoại Cảm Việt Nam
>> Cận cảnh tìm kiếm người nâng ngực bị ném xác
>> 'Xác chị Huyền mắc dưới cột đèn thứ 51 cầu Thanh Trì'?


Theo Lao Động, kết luận ban đầu về nguyên nhân tử vong của 3 trẻ sơ sinh sau khi tiêm vắc xin viêm gan B tại Hướng Hóa (Quảng Trị) là do bị tiêm nhầm thuốc gây co bóp tử cung Oxytocin.

Sáng nay mở báo, cái tin đập ngay vào mắt. Đọc xong mà rụng hết cả rời, té cứt té đái. 

Đấy, các bác thấy đấy, tiêm ngừa viêm gan thì ăn ngay một liều co bóp tử cung. (Bệnh nhân nam không hiểu uống xong nó bóp cái gì).

Sau bộ sưu tập tàu Hoa Sen đồng nát, ụ nổi sắt vụn, giờ đến một cái thiết bị lặn 100 triệu được anh TGĐ Thuê tài chính II Vũ Quốc Hảo “thổi” lên thành 1.300 tỷ.

Trong khi đó, ngay cả đại gia nhé: Anh Dũng lò vôi sau 7 năm chịu sóng thần nghiến răng kiện Thái thú Bình Dương. Làm đại gia chả sướng, cho nên anh Đặng Thành Tâm vừa than rằng chỉ muốn làm thường dân khi có lúc đã chỉ muốn uống thuốc sâu tự tử. Nghĩ tự tử giờ cũng không dễ đâu. Mua thuốc trừ sâu có khi lại nhầm sang thuốc tránh thai.

Trở lại vụ Cát tường, thợ lặn đã 48h mò tìm thân xác nạn nhân trên sông mà không thấy. Định mời nhà ngoại cảm, thì đụng ngay chuyện dùng xương bò làm thủ cấp cho tướng quân cách mạng. 

Định viết rằng giờ chẳng còn biết tin ai nữa, nhưng bớ ngay được cái tin >>> em Chi Pu đấu giá một cuộc hẹn đi chơi với em một buổi, để lấy tiền làm từ thiện.

Các bác đừng mỉa em í “đem thân đấu giá”. Phải tin vào Chi Pu, đơn giản niềm tin phải níu giữ bằng một cái gì đó chứ, đơn giản là không có Chi Pu, nhẽ lại bảo tin vào chị Tiến.

Nguồn: FB Đào Tuấn

Xem thêm:
- Sủa ... giọng Sài Gần!
- Con chó chờ miếng ăn thừa!
- Chuyện cái "ba vạn chín nghìn"

Monday, September 23, 2013

Dân oan thành kẻ sát nhân

>> Tham nhũng sợ thể chế tốt
>> Phí tiền của Nhà nước trả lương cho mấy vị quan tòa!
>> Ai dám lạc quan tin gần 30% người dân Việt thoát nghèo?


Phạm Lê Vương Các

Tiếng súng của gia đình họ Đoàn vừa lắng xuống thì tiếng súng Đặng Ngọc Viết lại vang lên tại vùng đất Thái Bình với hậu quả thảm khốc hơn, đánh dấu sự tang thương trong xung đột quyền lợi đất đai.

Không còn là tiếng súng cảnh báo mà nay đã là tiếng súng tấn công vào cơ quan uy quyền của một địa phương để “tìm và diệt” cán bộ quản lý đất đai, sau đó tự sát.

Khó kiện hay khiễu nại

Nhưng truyền thông nhà nước trong những ngày qua đã không khai thác về phạm trù đạo đức như đã từng làm đối với hành vi giết người của Lê Văn Luyện. Tất cả chỉ tập trung vào việc thu hồi và bồi thường đất đai.

Còn dư luận trong những ngày qua thì dường như chỉ nghe tiếng thở dài khi nhìn vụ việc theo mối quan hệ nhân-quả.

Đó là vì ai cũng hiểu rằng pháp luật và chính sách đất đai như hiện nay có thể đẩy một con người, một gia đình, vào đường cùng một khi bị thu hồi đất.

Từ tiếng khua chiêng gõ trống của nông dân Văn Giang cho tới những tiếng súng của Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết - đó là những âm thanh của sự tuyệt vọng khi đã vượt ra khỏi giới hạn của sức chịu đựng.

Trong vụ Đặng Ngọc Viết có thể nhận thấy xu hướng bất cần mức giá bồi thường do nhà nước đưa ra mà tự áp giá cho mình bằng cách nhận lấy “2 mét vuông đất” trong nghĩa trang để làm nơi định cư cuối cùng.

Đứng từ góc độ quản lý xã hội, quá nguy hiểm khi những người có trách nhiệm lại chưa có bất kỳ một biểu hiện nào để thay đổi chính sách và pháp luật về đất đai nhân dịp sửa đổi Hiến pháp.

Trong khi hệ thống pháp luật và thực trạng quản lý đất đai hiện nay dễ dẫn đến sự tùy tiện của người thi hành khi mà người ra quyết định thu hồi đất lại là người có thẩm quyền quyết định về khung giá bồi thường đất và thể loại đất.

Có nhiều người đang sử dụng đất nhưng khi bị mất đất cũng không được bồi thường một đồng nào với lý do được nêu ra là ‘thuộc diện đất công nên không được bồi thường’.

Điều bất ngờ là thuật ngữ ‘đất công’ lại được ưa dùng trong các quyết định hành chính liên quan tới thu hồi đất, trong khi Hiến pháp và Luật đất đai không hề đề cập đến hai từ ‘đất công’, hay ‘đất công là đất gì?’.

Nếu việc thu hồi đất bị khởi kiện ra tòa án, thì người bị kiện là chủ tịch huyện hay tỉnh, mà chủ tịch huyện hay tỉnh lại là ‘lãnh đạo’ của chánh án tòa án trong Đảng bộ của huyện hoặc tỉnh đó.

Khi người bị thu hồi đất ngại chốn pháp đình mà chỉ khiếu nại, thì người giải quyết khiếu nại cũng chính là người ra quyết định thu hồi đất.

Chính vì vậy, cơ may cho người dân đòi quyền lợi đất đai bằng phương pháp khiếu kiện là vô cùng nhỏ bé, có khi là bất khả thi.

Vai trò lớn của chính quyền

Bất cập đó dẫn đến thực tế là các nhà đầu tư cũng chẳng dại gì đi thỏa thuận với người dân, mà chỉ cần thỏa thuận riêng với chính quyền khi có nhu cầu sử dụng đất.

Chính quyền lẽ ra chỉ đóng vai trò trung gian trong chuyển giao quyền sử dụng đất giữ người dân và chủ đầu tư thì giờ đây họ lại trở thành người quyết định chính cuộc chuyển giao này.

Họ làm công việc đó bằng cách ban hành các quyết định hành chính mang tính chất mệnh lệnh ép buộc người dân phải chấp hành.

Dưới sự gợi ý của chủ đầu tư, các quyết định ‘thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế’ đang lạm phát đến mức chóng mặt.

Thế nên chẳng mấy chốc hình thành những đoàn người tập trung khiếu kiện lê lết khắp các nẻo đường.

Các mạng xã hội gọi họ là Dân oan còn các tổ chức phi chính phủ quốc tế gọi họ là ‘victims of justice’, có nghĩa là 'nạn nhân của công lý'.

Trong khi đó, các dư luận viên lại xem ḥo là những thây ma làm xấu xí hình ảnh quốc gia, được 'thế lực thù địch' cho tiền ăn vạ nhằm gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Những quan chức cao cấp có lương tâm không cần phải ‘vi hành’ để tìm oan sai, mà chỉ cần rảo bước tập thể dục trong vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội hay đi dạo trên đường Võ Thị Sáu ở Sài Gòn là sẽ biết.

Một nghịch lý là trong 5 năm trở lại đây chưa phát hiện được một trường hợp tham nhũng đất đai nào dù dòng người khiếu kiện vẫn gia tăng.

Không biết có phải nhờ vào quyết tâm ‘cho hốt liền, không nói nhiều’ hay đụng phải cơ chế ‘nếu xử lý hết lấy ai làm việc’ như hai quan chức cao cấp đã từng nói?

Tham nhũng đất đai

Dù hai câu nói ý khác nhau, nhưng lại có vẻ rất phù hợp với thực trạng chống tham nhũng đất đai. Có thể miêu tả gọn tình trạng này bằng từ: bất lực.

Tuy thu hồi và bồi thường đất đai là do cá nhân ra quyết định, nhưng đằng sau là cả một hệ thống ban ngành có liên quan và một nhóm lợi ích đang chầu chực.

Với tính chất siêu lợi nhuận mà đất đai mang lại nên các bên có thể được ăn chia đẹp và sòng phẳng với nhau. Bởi vậy nên tự nó đã hình thành một mạng lưới đan xen và kết dính vào nhau để tạo nên một thế đứng an toàn trong hệ thống, dễ làm nhụt chí những ai có quyết tâm chống tham nhũng.

Những người bị ‘hốt’ trước đó hầu như chỉ là quan chức cấp huyện và đều rơi vào trường hợp ‘ăn tạp’ và ‘quá ẩu’, nên đã tự tách mình ra khỏi ‘giới hạn để được bảo vệ’.

Thành thử ‘hốt’ quan tham thì ít, mà thực tế chỉ thấy ‘hốt’ người dân tập trung khiếu kiện thì nhiều.

Hai chữ Công lý của người dân khiếu kiện khi trở về địa phương chỉ là tên của một diễn viên hài để làm nên những câu chuyện cười ra nước mắt.

Như câu chuyện một nông dân ở một tỉnh nọ không đồng tình với việc thu hồi và cưỡng chế đất của chính quyền sở tại nên mang đơn vô Sài Gòn, ăn nằm dầm dề kêu oan nhiều ngày trước các cơ quan Trung ương.

Thế là chính quyền tỉnh này cho rằng người nông dân này đã ‘lợi dụng quyền kiếu kiện’ để gây mất an ninh trật tự, vu cáo lãnh đạo tỉnh, nên bắt người nông dân này về và đem ra xử theo điều 258.

Tại phiên tòa người nông dân này nói: ‘Tòa thử nghĩ coi, một con chim khi bị người ta phá tổ thì nó cũng kêu la quang quác để kêu cứu. Còn tôi là con người, tôi bị người ta cướp đất phá nhà, phá đi tổ ấm sinh hoạt của gia đình tôi, thì tôi phải kêu la lên để cầu cứu chứ, cớ sao lại bắt tội tôi?’.

Quan tòa đáp lại: ‘Con người khác với con chim. Bị cáo không được so sánh con người với con chim. Con chim không biết căng băng rôn biểu ngữ, còn bị cáo thì biết căng băng rôn biểu ngữ bôi xấu lãnh đạo tỉnh’.

Đây chỉ là câu chuyện hài của giới luật học, nhưng trên thực tế là địa phương đã ‘giải quyết’ cho nhiều trường hợp đi khiếu kiện đất đai ở Trung ương về bằng một bảng cáo trạng cho tội danh ‘Gây rối trật tự công cộng’ theo điều 245, hay tội ‘Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của tổ chức và công dân’ theo điều 258 Bộ Luật Hình sự.

Mất niềm tin

Oan sai chồng chất oan sai. Từ chỗ người dân bị thu hồi đất chỉ mất niềm tin vào chính quyền địa phương, nhưng sau khi khiếu kiện thì sự mất niềm tin này đã lan sang cả cấp Trung ương.

Từ những biểu hiện này, để có thể hiểu lý do vì sao Đặng Ngọc Viết lại không dùng quyền khiếu nại, quyền khởi kiện ra tòa án theo quy định pháp luật, hay nhờ đến sự can thiệp của các cơ quan Trung ương mà lại hành xử bằng luật rừng.

Tiếng súng của Viết cho thấy sự bế tắc trong việc tìm kiếm công bằng nơi tư pháp và sự mất niềm tin vào chính thể rồi phải hành động bằng sự trỗi dậy của bản năng.

Bỡi lẽ, đi khiếu kiện đất đai là sống đời dân oan vật vờ bên đống tro tàn của niềm tin công lý.

Viết đã không chọn cái chết dựa cột nơi pháp trường theo luật, mà chọn cách gục ngã dưới chân tượng Quan Thế Âm.

Nhưng trong đời sống thực tại để cứu giúp cho công bình thì cần đến Rousseau và Montesquieu.

Nếu các vị này không có chỗ đứng trong sự vận hành của xã hội thì khó tránh khỏi việc dân oan trở thành sát thủ.

Nguồn: BBC
(Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một sinh viên luật hiện đang theo học ṭai Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.)

Xem thêm:
- Súng lại nổ vì chuyện đất đai
- Nhân định và thiên lý?
- Chính sách đất đai: Không biết đâu mà lường