Showing posts with label đặc sản. Show all posts
Showing posts with label đặc sản. Show all posts

Saturday, November 30, 2013

Ăn phở cũng lắm công phu

>> Bí mật của những thầy tu Tây Tạng “biết bay“
>> Đọc thêm một truyện ngắn của nữ văn sĩ vừa nhận Nobel 2013
>> Hai quận mới của Hà Nội sẽ được gọi đơn giản là "Nam Từ Liêm" và "Bắc Từ Liêm"?
>> 'Bóng ma' bí ẩn ở rừng hoang 10 năm
>> Chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly”: Niềm tin bị đánh cắp khi “giả, thật” dùng dằng


Minh Đạt

Có nhiều cách ăn phở khác nhau. Có nhiều cảm nhận về phở khác nhau. Tôi xin kể dưới đây một số kiểu đặc trưng mà tôi biết.

1
Tôi có Ông bạn vong niên, đã kể về một kiểu ăn phở cách nay khoảng nửa thế kỷ. Số là gần nhà ông có một ông khi đó trên dưới năm mươi tuổi. Nhà ông này, trước khi giải phóng Hà Nội vốn giàu có, sau giải phóng nhiều biến đổi, nhưng ông vẫn muốn giữ những nền nếp phong lưu của mình khi xưa. Sáng sáng, rất đều đặn, tầm 6 giờ ông này diện đồ Tây, trên đầu có cái mũ phớt, tay cầm cái patong. Ông này đi dạo phố một vòng, khi trở về ông đưa cái tăm lên miệng, qua các quán chè chén (trà) có người quen hoặc không quen hàng phố ngồi, nhấc cái mũ khỏi đầu, ông ra ý chào. Gần tới quán chè chén, hoặc vừa mới bước qua, tức là ngay trước hoặc ngay sau khi nhấc cái mũ lên, Ông thường bâng quơ chép chép cái miệng, cái miệng có cái tăm để sẵn, và bâng quơ nói: cái thằng phở Cao (hoặc phở Thìn, hoặc phở gì gì đó gần đấy) độ này thịt bò (hoặc thịt gà) dai quá! Vào cái thời ngày đấy, mà buổi sáng được ăn của khoai, củ sắn với nhiều người cũng là phong lưu lắm rồi. Hình như sáng nào ông đó cũng đã ăn sáng bằng mấy củ khoai lang luộc trước đó. Nhưng sáng nào ông đó cũng đi ăn phở, hoặc phở bò, hoặc phở gà… Đây là kiểu ăn phở hoài niệm cho nó vẫn phong lưu.

2
Một số năm sau đó, có kiểu ăn của thời bao cấp. Bên đường phố tấp nập người xe, thường có một quán phở cóc trên hè, bàn ăn phở thấp, ghế ăn phở thấp. Người ăn phở đủ loại người, thoảng thấy có anh mặc đồ Tây, đi giày Tây hẳn hoi, đi xe đạp, có cái cặp chắc hẳn đựng tài liệu. Hối hả ghé quán phở ăn sáng. Nhưng phải trả tiền trước. Phải tự bê bát phở từ tay bà bán phở ra bàn ăn. Nói là bàn, nhưng nhiều khi đông quá, làm gì đủ bàn. Thế là, cặp tài Liệu cắp nách, tay bưng Bát phở, ghé qua bàn phở nào đó, chan ít tương ớt, chan ít nước giấm tỏi, kiếm một cái ghế, quay mặt vào tường, cái cặp để trên dùi, một tay cầm bát phở, một tay cầm đôi đũa, úp mặt vào bát phở, hì hụp ăn, hì hụp húp, hì hụp và, ăn xong hết cả nước lẫn cái, cái bát không hãy còn nóng. Đứng dậy, mặt đỏ lừ, kiếm một cái tăm, rảnh rang một chút ghé quán chè chén bên cạnh, nhanh chóng uống một chén, không rảnh rang thì hối hả lấy xe đạp, hình như sắp muộn giờ đến cơ quan. Những người này không phải là khách thường xuyên được ăn sáng bằng phở. Cách họ ăn thật tội nghiệp, gọi không khéo, tính trả tiền không khéo là bị Chủ quán phở coi thường, mắng là thằng nhà quê. Nhưng biết đâu đấy có khi là một Phó tiến sỹ, một Cán bộ của một viện nghiên cứu, một Cán bộ giảng dạy của một trường đại học không chừng. Vì thời đó những người này nghèo lắm. Một kiểu ăn phở đặc trưng của thời bao cấp.

3
Nhưng vào thời đó lại có một số ít người có kiểu ăn phở khác. Có thằng không biết làm gì mà giàu thế. Nhà nuôi chó Tây. Sáng sáng đi ăn phở, nó dẫn chó đi ăn cùng. Nó kêu một tô đặc biệt, thịt đùi, thêm trứng. Nó kêu cho con chó Tây một tô cũng như vậy. Nó một ghế, chó của nó một ghế, hai đứa chúng nó hai ghế, có bàn đàng hoàng. Đã có nhiều người không chịu ngồi chung với nó và chó. Thế là nên chuyện. Nghe đâu có vị Hiệp sỹ, trước đây là lính đặc công, bất bình đã thách đố với nó và đã bóp chết con chó. Nghe mà khiếp! Khổ, tội nghiệp con chó, vì ngẫm ra thằng đó, nó có yêu chó nó nhiều lắm đâu.
Nhưng thường thì có kiểu ăn phở đỡ chướng hơn kiểu trên một chút. Đó là kiểu, đi dép tông Lào, mặc áo phông quần bò, nghênh ngang vào quán, nó quát to: Ê một tô như mọi khi. Kéo cái ghế ngồi, thường nó ngồi xổm trên ghế. Đứa em gái nhỏ bưng bê, bê tô phở ra đặt trước mặt. Nó đập lên bàn đến ầm một cái và quát tiếp: Ê hôm nay sao nước đục thế này, gọi Chủ quán ra đây, mày không biết tao là ai à? Dân hàng phố gọi đấy là kiểu Bố mày đi ăn phở đây. Kiểu ăn phở này không khác nhiều với kiểu ăn phở côn đồ của một thằng quan chức đã mất ghế vì dính vào vụ PMU của bộ Giao thông, ăn phở rồi đánh nhau trong tiệm phở.

4
Những năm 90 của thế kỷ trước, đất nước mới mở cửa, Hà Nội có nhiều người giàu lên, sành điệu hơn. Tôi ra Hà Nôi, được một số người bạn nhiệt tình đưa đi đãi ăn phở. Chở nhau bằng xe gắn máy, đi lòng vòng, qua mấy phố cổ, kiếm chỗ gửi xe khá là cách rách, phố cổ hẹp, hè phố nông, nhiều hàng quán, mãi mới tới được chỗ gửi xe. Quay lại chỗ ban đầu, chưa thấy quán phở đâu. Không, nó phải nằm trong ngõ cơ. Phải đi vào trong ngõ sâu, qua sân mấy ngôi nhà, trèo lên một cái cầu thang dài, đi qua mấy balcony của mấy căn hộ, lại đi xuống mấy bậc cầu thang nữa, qua những ngôi nhà cũ, qua những ngôi nhà mới xây cất, lên xuống do khác cốt, mới tới một căn phòng, khoảng mấy chục mét vuông, nấu phở trong đó, bán phở trong đó và ăn phở trong đó. Toát hết cả mồ hôi. Chả thấy ngon hơn gì mấy chỗ khác. Nhưng hình như, sành điệu là phải cầu kỳ một chút, phải khác biệt một chút. Cái cầu kỳ, cái khác biệt chả cần nằm trong hương vị của tô phở, nhưng dù sao cũng là cầu kỳ là khác biệt. Cái cầu kỳ, cái khác biệt ở đây là sự lên lên xuống xuống của những bậc cầu thang. Đó là kiểu ăn phở sành điệu!

5
Mấy năm gần đây có một kiểu ăn phở mới. Ăn phở bò Kobe. Một Bát phở có giá 850.000 đồng. Đương nhiên người thường dân đâu có thể đến đây được. Thịt bò được nhập thẳng từ Nhật. Đây là loại bò đặc biệt, nuôi ở Kobe, tỉnh Hyogo. Nghe nói, Các chú bò được nuôi dưỡng với quy trình siêu đặc biệt. Ăn toàn những thức ăn bổ dưỡng, như bắp non, lúa mạch. Uống thì uống bia thay nước. Tắm bằng nước nóng, ngày ngày được thư giãn massage bằng rượu Sake hảo hạng. Nhưng chưa hết đâu. Các chú bò này hình như còn được thụ hưởng một nền giáo dục đẳng cấp Châu Âu, toàn được nghe nhạc Mozart, Chopin. Âm nhạc Hàn lâm đã làm gia tăng năng lực cảm thụ nghệ thuật của các chú bò, và sẽ truyền vào những thực khách ăn phở bò sau này chăng?

Có một vị giáo sư, tiến sỹ, viện trưởng một viện nghiên cứu về chuyên nghàng, hình như đã có Công trình nghiên cứu lân cận vấn đề này(?), đã phát biểu rằng: thịt bò Nhật, thịt bò Mỹ, thịt bò Úc,… và thịt bò Việt Nam có phần dinh dưỡng là tương đồng, không khác nhau mấy. Trời ạ! Thực khách đi ăn phở bò Kobe, họ có cần ăn dinh dưỡng đâu. Họ ăn cái giàu của họ đấy chứ, họ ăn cái thời thượng, ăn cái quý tộc của họ đấy chứ. Bố bảo thường dân giám đến đấy mà ăn! Vì đây là kiểu ăn phở quý tộc. Nói vậy, là không kể tới các vị đến ăn, để thử, để nhấm nháp cái vị siêu thịt bò ấy như thế nào, nó có khác gì cái anh thịt bò mình không? Và cũng không kể tới các vị đã từng sống ở Nhật đã từng tận hưởng, đã từng thưởng thức thịt bò của cái xứ Kobe, nay đến ăn để nhớ lại,…

6
Bạn tôi có lần được đi mấy nước Tây Âu, theo một đoàn Chính phủ, anh kể về một bữa ăn phở nhớ đời. Hôm đó trời rất lạnh, âm hai mươi mấy độ, tới thủ đô một nước đã rất muộn, tất cả mọi người đều rất mệt. Check in ở khách sạn vào khoảng 1 giờ sáng. Mệt mỏi, kéo đồ lên tầng, nhưng sao lại có mùi phở bò thơm lừng, tỉnh hết cả người. Hoá ra, vợ chồng Ông Đại sứ mang nồi niêu đến khách sạn nấu một nồi phở đãi mọi người. Bình sinh anh chưa bao giờ được ăn một Bát phở ngon đến như vậy. Đủ cả: hành, mùi, thơm; nước dùng trong, thơm và ngọt. Không phải vì quá đói, vì đã ăn trên máy bay. Không phải vì quá mệt, vì khi mệt ít khi người ta thèm ăn và ăn nhiều. Có một phần là do đi đã lâu, rồi tới một nơi rất lạnh, Hương và vị phở dường như đậm đà hơn. Nhưng hình như hơn cả là ở Tấm lòng của người nấu phở. Hai vợ chồng Ông bà Đại sứ là người gốc Hà Nội. Làm Đại sứ ở một nước Tây Âu họ cũng không giàu có lắm, thời gian đoàn lưu tại đó không lâu, không còn buổi chiêu đãi nào khác nữa. Họ đã chiêu đãi phở, ngay tối hôm đó. Nhiều nhà Văn hoá nói rằng, nấu ăn mà nấu bằng cả Tấm lòng, cả niềm say sưa, là gửi là hồn mình vào trong món nấu; thì Đồ ăn sẽ ngon lên rất nhiều. Quả thật vậy, thật là khó khăn để kiếm đủ thứ cho một nồi phở ở một nước Tây Bắc Âu, rồi lại phải ninh xương để cho nồi nước dùng ngọt, chắc không dưới mười tiếng đồng hồ cho nồi nước dùng đó, rồi lại phải kiếm đầy đủ: mắm, ớt, dấm, tỏi, hành, mùi, và thơm, đủ vị. Anh đó nói đã ăn phở theo cách ăn cả Tấm lòng mà bạn bè đã gửi vào. Đó là kiểu ăn phở có Tấm lòng.

7
Một kiểu ăn phở khác, trong câu chuyện do một người bạn khác của tôi kể. Số là anh này cũng không phải dân có tâm hồn ăn uống cho lắm. Mỗi lần về quê, một Thị xã nhỏ, anh này thường thích ghé qua một quán nhỏ để ăn sáng. Quán đó anh này thích, không chỉ vì phở bò ngon, mà vị mọi thứ ở đó đều sạch sẽ, bát đũa thìa đều được tráng nước sôi; Bát phở thì đơm vừa phải, nước dùng trong và ngọt. Lần đó về ăn. Cũng kêu như mọi khi. Nhưng không có phở bò, thế mới chán, chỉ có phở gà thôi. Anh này đành ăn tạm. Rồi trong lòng thắc mắc, tại sao không phải phở bò, mà chỉ có phở gà. Ăn xong, cũng rảnh rang, bèn hỏi thử Chủ quán. Hoá ra, chủ quán là nhà giáo, nấu phở thêm là nghề tay trái. Không nấu phở bò nữa, vì giá gas tăng quá, nấu phở bò phải ninh xương mười mấy tiếng đồng hồ, lỗ không bán được. Đun bằng than tổ ong, thì lại ô nhiễm môi trường. Mà làm ẩu, hoặc đổi bằng xương khác, ninh với thời gian ít hơn, thì không đành lòng. Nên đành đổi sang nấu phở gà. Vẫn đảm bảo ngon, vừa giá, đủ lấy công làm lãi. Đúng là nhà giáo đi nấu phở. Nhưng với Bát phở có Văn hoá như thế này thì ăn kiểu gì đây? Chắn đành tìm cách ăn theo kiểu có văn hoá tương ứng vậy.

8
Cuối cùng phải kể đến cách ăn phở mang tính Tâm Linh. Cách ăn phở của Thi sĩ Đông Hồ. Với thi sĩ phở là Quốc hồn. Thường mỗi lần đi ăn, ông và vợ (nữ thi sĩ Mộng Tuyết) sắm sanh rất cẩn thận. Ông vận áo the, quần lĩnh và khăn đống, đánh xe hơi đi, và không quên một cái tráp. Đến hiệu phở đã ăn quen, ngồi một góc khuất, mở tráp lấy ra hai cái tô nhỏ, hai đôi đũa và hai cái thìa. Nhờ nhà hàng tráng nước sôi sạch sẽ đồ đã mang đi, phở được đơm vào hai tô đó, và sẽ ăn bằng hai đôi đũa đó và hai cái thìa đó. Khi phở mang ra, cũng như mọi người, họ thêm chanh hoặc dấm, thêm ớt hoặc tương,… tất cả đầy đủ gia vi. Và. Họ lặng lẽ ăn… Đó không chỉ là hành vi đơn thuần về ăn và uống. Nó đã phảng phất thuộc tính của Tâm linh. Nó có một khoảng lặng, một khoảng dừng. Nó không còn là hương vị phở, nó đã trở thành phong vị của núi sông, của non nước. Nó rất đẹp, cái đẹp của món ăn, cái đẹp của cách ăn và cái đẹp về người ăn. Cái đẹp phảng phất hình ảnh của Tâm linh. Nó chứa đựng cả lòng biết ơn với tổ tiên đất nước.

Sài gòn, ngày 7/8/2011
MINH ĐẠT


Xem thêm:
- Lời thề Sở Khanh
- Khi công lý đến muộn, công lý sẽ bị chối từ
- “Thằng đần ạ, phải biết vẫy khăn như thế chứ!"

Sunday, September 29, 2013

Bánh xèo miền Trung

>> Đạo đức quy ra tiền
>> Cán bộ phạm tội 'trở về'
>> Không nên quy định cứng vào Hiến pháp
>> Gian lận BV Mắt Hà Nội bị "tố" tới ông Nguyễn Bá Thanh
>> 1% công chức “cắp ô” hay “mốt” báo cáo tô hồng



Nói đến bánh xèo, bây giờ ít ai còn nghĩ rằng đó là món đặc trưng của miền Trung, và không chừng, du khách sẽ nghĩ rằng đó là món ăn phổ thông của ba miền Việt Nam.

Trên thực tế, bánh xèo là món đặc trưng của dân nghèo miền Trung, và cái độc đáo của món ăn này nằm ở chỗ nơi nào càng nghèo, bánh xèo càng ngon, càng phong phú và độc đáo. Nếu như nói về bánh xèo bốn mùa người ta thường nhắc đến Quảng Ngãi và Bình Định, riêng mùa Đông, có lẽ, bánh xèo Quảng Nam là mang hồn cốt của cái nghèo và sự thi vị của nó đậm nhất.

Bà Nguyện, người bán bánh xèo lâu năm ở Đức Phổ, Quảng Ngãi cho chúng tôi biết rằng nếu nói về chủng loại, bánh xèo có đến hơn ba trăm loại bánh xèo, hiện nay, bánh xèo phổ thông nhất mà bà vẫn bán cho khách là bánh xèo tôm thịt. Đây là món rất quen thuộc của nhiều người, vừa dễ làm, vừa rẻ mà cũng khá ngon. Bánh xèo cũng chia làm ba hạng: Thượng lưu; Bình dân và Nhà nghèo.

Bánh xèo của giới thượng lưu chỉ có ở Bình Định vào thời vua Quang Trung, những người thợ nấu bếp của vị vua này biết chủ nhân của họ rất ưa món bánh xèo và ăn rất mạnh nên họ đã sáng tác ra món bánh xèo chảo. Ưu điểm của bánh xèo chảo là có thể phối hợp nhiều thứ gia vị vào chiếc bánh cùng một lần đúc để tạo ra chiếc bánh xèo ngũ cốc gồm nhiều loại bột và tổng hợp nhiều loại thịt, tôm, trứng, thậm chí là cá biển, cá sông cũng có trong đó. Bánh xèo chảo sau này đi vào các khách sạn, nhà hàng năm sao với giá từ vài đôla đến vài chục đôla mỗi chiếc.

Và ngược với tính cách của vị vua nhà võ phía Nam, ở kinh thành Huế, các đầu bếp trong cung đình cũng sáng tạo ra một loại bánh xèo khá ngon với nhiều loại bột, trong đó bột khoai lang được dùng tỉ lệ cao nhất, và nhiều loại thịt được cho vào, cùng với hai quả trứng gà so nằm trang trí giữa bánh, dân gian gọi là bánh khoái nhưng trên thực tế đó là bánh xèo chảo Bình Định biến thể để phục vụ các vua triều Nguyễn.

Về sau này, bánh xèo chảo cũng có mặt ở Huế, Quảng Nam và Quảng Ngãi nhưng hầu như ít ai mặn mà với loại bánh này vì nó khó làm, tốn kém nguyên liệu và công sức hơn so với những loại bánh xèo bình dân khác. Phần lớn các quán bánh xèo ở miền Trung, đặc biệt là Quảng Nam chỉ xuất hiện vào mùa Đông, đến khi khí trời ấm áp, nắng ráo, tự dưng các quán biến dần, không thấy nữa.

Bà Năm, người bán bánh xèo khá lâu năm ở Duy Xuyên, Quảng Nam, chia sẻ: “Làm bánh xèo thì mệt nhưng vui. Ngày xưa, nhà nghèo, người ta bắt ốc, bắt cua đồng, hoặc cá đồng về làm bánh, thậm chí có nhà còn dùng cả củ chuối để biến thành nhưn bánh xèo, bây giờ có khá hơn, người ta làm nhưn tôm, nhưn thịt heo. Như mỗi lon gạo thường đúc được mươi đến mười lăm cái bánh, bán với giá hai ngàn rưỡi đồng, trong đó có cả tiền dầu, củi, tôm, thịt và bột, chủ yếu lấy công làm lãi sống qua mùa Đông thôi. Chứ mưa lạnh lấy chi mà sống.”

Với người Quảng Nam, bánh xèo là món ăn vừa rất gần gũi và nhắc nhớ một chút ký ức nào đó về thời nghèo khổ, hàn vi. Nếu như bây giờ, bánh xèo chỉ là món ăn lấy vui, lạ miệng thì ngày xưa, đây là món đặc sản, món quí để đãi khách, để dành cho những ngày giỗ cúng và cũng là món bồi dưỡng cho những ngày mùa Đông đói lạnh.

Món ngon bình dân

Điểm đặc biệt của bánh xèo là món này ăn rất mau no mà lại no lâu bởi lượng dầu để đúc khá nhiều, vị béo ngậy, cộng với tôm, thịt và bột gạo. Chị Linh, đứng bán bánh xèo ở ngã ba chợ Hội An cho chúng tôi biết là món này làm tuy nhìn dễ nhưng rất tốn công. Để có được chiếc bánh xèo vừa ý, chị phải chọn gạo thơm truyền thống như gạo Xuyệt, gạo Tư Hoảnh để ngâm, sau ba canh giờ, lại manh ra xay và lấy trùng, phần lấy trùng bao giờ cũng quyết định cho ra chiếc bánh xèo ngon hay dỡ, độc đáo cỡ nào. Sau đó đến phần làm rau sống gồm cải non, chuối chát, khế, diếp cá, đọt xoài, rau húng, rau quế, xà lách và đặc biệt là bắp chuối thái nhỏ. Trong rau sống bánh xèo mà không có bắp chuối thái nhỏ thì vị ngon của nó giảm đi rất nhiều.

Chị cho biết thêm, thường, bán bánh xèo tuy rất vất vả, cực nhọc, thức khuya, dậy sớm nhưng lợi nhuận thì chẳng là bao. Trung bình, mỗi chiếc bánh xèo bán cho khách với giá hai ngàn đồng đến ba ngàn đồng bao gồm cả rau sống, nước chấm và bánh tráng, lá cải xanh để quấn bánh, chủ quán kiếm lãi cao nhất cũng chỉ chưa tới năm trăm đồng trên mỗi chiếc bánh. Và cái kiểu kiếm lãi tích tiểu thành đại, tuy lãi ít nhưng bán nhiều chiếc bánh sẽ cho ra nhiều tiền lãi cũng là một kiểu kiếm tiền rất ư Quảng Nam.

Có thể nói rằng chỉ có những vùng thiên nhiên không ưu đãi, đất thiên tai triền miên, mưa chan nắng cháy như Quảng Nam, con người mới chịu cần cù, chịu thương chịu khó để tích cóp từng đồng lẻ, dành dụm để xây nhà. Và chị Linh đưa ra nhận xét khá thú vị là chỉ có người Quảng Nam nói riêng và người miền Trung, ở những tỉnh khó khăn, hay thiên tai, người ta mới dám nghĩ đến chuyện bán vé số, nuôi heo, bán bánh xèo để xây nhà. Vì cái nhà không đơn giản chỉ để ở mà còn là nơi để trú ngụ trong mùa mưa bão, thiên tai, nên bắt buộc cái nhà phải kiên cố, vững chãi. Cũng chính vì tâm lý này, phần đông người Quảng nói riêng và người miền Trung nói chung thường có tính tiết kiệm, chịu khó và nỗ lực.

Trung bình, mỗi ngày bán bánh, chị Linh kiếm được từ 70 ngàn đồng đến 120 ngàn đồng, con số kiếm được của bà Năm ở Duy Xuyên cũng tương đương. Và hình như số tiền lãi kiếm được của nhiều người bán bánh xèo tại Quảng Nam chêch lệch nhau cũng không là bao. Và đương nhiên, bánh xèo ở Quảng Nam chỉ nở rộ vào mùa Đông và lặn dần khi nắng ấm ghé đến.

Trong thời gian này, về đêm, trời mưa và lạnh, đi ra những ngã ba đường hoặc những khu chợ cũ, bất ngờ gặp những đóm lửa leo lét cháy và nghe âm thanh lèo xèo, cảm giác ban đầu hơi ớn lạnh bởi giữa nơi quạnh quẽ, vắng vẻ lại mọc lên lửa và tiếng lèo xèo, đó không phải là ma, đó là những người nghèo miền Trung đang mưu sinh, đang chăm chú quan sát bếp lửa và chiếc bánh để bán cho khách. Thậm chí, cả tương lai gia đình, con cái học tập của họ nằm trong ánh lửa bập bùng, leo lét ấy!

Nguồn: RFA


Xem thêm:


Thursday, May 30, 2013

Về Đà Nẵng ăn tré

>> Điều trần lần 3 về Nhân quyền ở VN
>> Tác giả Nguyễn Văn Thạnh viết bài cho Vietnamnet bị triệu tập
>> Nói cho kịp để ngày mai ông Thạch đến cơ quan công an
>>>>> "Siêu nhân" Thời tiếp tục lên đời


Hồ Trung Tú - Nếu phải phân loại theo nhóm thì tré thuộc thuộc về nhóm thính chứ không phải nem hay chả mặc dù hình thức rất giống nem chua, chả thủ.  Thịt heo, theo truyền thống thì thịt tai mui là chính, gần đây được mở rộng ra thịt ba rọi (ba chỉ), da thái chỉ, tất cả luộc chín, sau đó được thính trong củ riềng, tỏi. Ủ cho lên men chua 2-3 ngày thì mới dậy mùi  và đạt độ thơm ngon. Có thể đóng gói sản phẩm thịt thính riềng này trong lọ, thẩu, gói lá chuối, bọc lá ổi. Lọ thẩu thì tiện dụng nhưng không có hương vị đặc sắc như gói trong lá chuối, lá ổi.

Hương vị chính không thể lẫn của tré chính là thịt chua lẫn trong hương củ riềng. Không như mùi củ riềng trong nấu thịt chó, kho cá đồng, củ riềng trong tré là hương vị riềng còn tươi, không luộc chín, cay nồng bên cạnh vị ngọt chua của thịt lên men.

Nếu nem, chả giò tôn vinh vị thơm ngọt của thịt nạt, thì tré là nghệ thuật ẩm thực của con nhà nghèo, thịt để làm tré là thịt rẻ tiền nhất của cả con heo, đó là tai, mui, da, ba chỉ (không 100% thịt nạt như nem, chả, giò). Thế nhưng từ những sản phẩm phụ của một con heo ấy các bà mẹ miền Trung đã chế biến thành một thứ đưa cay khó có sản phẩm nào từ thịt heo sánh được.

Ngày tết, chả, giò ngon mấy cũng vài lát là ngấy, nem thì ăn nhiều dễ đau bụng, tré Đà Nẵng tỏ ra khá thích hợp với  để đãi khách, để đưa đẩy câu chuyện ngày xuân bên chén rượu, cốc bia ngầy ngật suốt 3 ngày mà không ngán.

Cái hay của tré còn ở chỗ không ai có thể ăn nhiều được vì ...khó gắp! Dùng thìa thì chướng, dùng đũa thì do tré vụn ra, không thể gắp nhiều được. Một cục tré có khi đủ cho 4-5 người nhậu hết buổi. Trong thời buổi thắt lưng ngày càng dài như hiện này thì nhược điểm này của tré có thể lại là điều hay !

Cần phải nói thêm là tré Đà Nẵng sẽ ngon hơn rất nhiều nếu ăn kèm với tương ớt Đà Nẵng. Tương ớt Đà Nẵng không chỉ là ớt luộc bằm nhỏ làm tương mà chính là món sốt ớt với nhiều thứ gia vị khiến nó vừa thơm cay của ớt, của tỏi, vừa ngọt của đường, của gia vị. Đây là sản phẩm của người Hoa Hội An thế kỷ 17 và nay đã được người Đà Nẵng làm theo bán kèm với tré.

Lời nhắc nhở cần thiết là các gia đình có bé gái trên dưới 8-10 tuổi hãy cẩn thận, các bé có thể ăn món này đến căng bụng, nhất là khi kèm với tương ớt, nhiều bé đã vừa ăn vừa khóc nhưng vẫn không chịu dừng.

P/s: Ghét mấy anh em nhà bà Đệ, khi nghèo không sao, đến khi phát đạt, có thương hiệu lại mất đoàn kết .., buồn cười nhất là cái câu "Bà Đệ đã mất năm 1994" dán trên bảng hiệu, nhưng vì sự thịnh vượng chung của Đà Nẵng nên quảng cáo miễn phí luôn.

Xem thêm:
- Cổng chùa thiện ác
- Tháng Năm đâu có Tết?
- Cấm hàng rong